Công trình đại thủy nông Phú Ninh
Năm 1952, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng phản công thì ở Quảng Nam – Đà Nẵng xảy ra nạn đói trên địa bàn nửa tỉnh phía nam, do nắng hạn làm cho vụ lúa tháng 3 mất trắng.
Trước tình hình bức xúc đó, Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến – Hành chính tỉnh chủ trương đắp đập thác Mui, ngăn sông Tam Kỳ, đào kênh dẫn nước về tưới các cánh đồng khô hạn của huyện Tam Kỳ. Nhưng việc tính toán nóng vội, chủ quan thiếu điều tra khảo sát thực tế và sự thẩm định khoa học, cho nên đã không thành công. Khắp các huyện vùng tự do vào thời ấy dấy lên phong trào đi đào kênh Ba Kỳ. Hàng chục vạn ngày công, hàng trăm tấn lương thực, gạo, sắn, khoai, bắp đã bỏ ra để đổi lấy dòng nước hạnh phúc, nhưng kết cục dang dở, thất bại. Công việc đào kênh giữa chừng bị bỏ, vì “lực bất tòng tâm”. Một vỉa đá khổng lồ chắn giữa đèo Tư Yên, mà trình độ kỹ thuật và phương tiện vật chất, dụng cụ thời bấy giờ chưa thể giải quyết được.
Sau ngày giải phóng, vấn đề nước tưới cho các cánh đồng ở phía nam tỉnh là một yêu cầu lớn cần có phương án giải quyết. Việc xây dựng công trình đập Phú Ninh – tất nhiên với quy mô lớn hơn thời kháng chiến chống Pháp – lại được lãnh đạo tỉnh đặt ra, và coi đây là viên đá đầu tiên của cơ sở vật chất mang lại ấm no hạnh phúc cho người dân. Kế hoạch đề ra đã được Bộ Thủy lợi nhất trí tán thành và cử nhiều đoàn cán bộ đến giúp tỉnh khảo sát, thiết kế, lập luận chứng kinh tế – kỹ thuật, trình Chính phủ duyệt. Với tinh thần tấn công Đại thắng mùa xuân, mà dư âm của nó chưa tắt, bằng sự nỗ lực, khẩn trương hiếm có, chỉ một năm sau Ủy ban Nhân dân tỉnh đã trình phương án lên Chính phủ, mà lẽ ra bình thường phải mất từ 5 đến 7 năm.
Sau khi kế hoạch được duyệt (12-7-1977) chỉ một tháng sau, ngày 29-8-1977, Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh phát lệnh nổ 29 quả mìn định hướng phá vỡ vỉa đá khổng lồ nơi đèo Tư Yên, mà trước đây, năm 1952 ta phải đành thúc thủ. Có thể coi đây là cái mốc lịch sử mở đầu cho một dòng sông nhân tạo kéo dài hơn 50km, đưa nước về cho hàng vạn hécta đồng đất đang khát.
Phong trào đi xây dựng công trình đại thủy nông Phú Ninh được phát động trong toàn tỉnh, thu hút hàng chục ngàn lao động, thanh niên, học sinh, sinh viên, bộ đội, cán bộ khoa học kỹ thuật, văn nghệ sĩ… đến công trường.
Tại ngay lòng hồ Phú Ninh, nơi sẽ bị ngập sâu dưới hàng trăm triệu m3 nước, có 5.000 dân phải di dời. Đây quả là một sự hy sinh không nhỏ của người dân vừa mới thoát khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 30 năm.
Ngày 29-3-1979, sau hai năm trời lao động cật lực của hàng chục vạn con người, lễ chặn dòng sông Tam Kỳ đã được thực hiện. Một con đập cao 32m, dài 500m được xây dựng để tích nước tưới cho trên 20.000 hécta đồng khô cỏ cháy, biến từ một vụ lúa thành hai, ba vụ. Hồ Phú Ninh có sức chứa 344 triệu m3 nước là công trình đại thủy nông lớn được xây dựng ở miền Nam sớm nhất sau ngày giải phóng.
Nước hồ Phú Ninh được đưa về tưới các cánh đồng, vườn tược ở các huyện, thị phía nam tỉnh đã góp phần quan trọng làm thay đổi hẳn môi trường sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo điều kiện xóa bỏ những tập tục, thói quen sản xuất lạc hậu, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Công trình đại thủy nông Phú Ninh là một cột mốc lịch sử rất có giá trị và ý nghĩa về nhiều mặt trên con đường phấn đấu xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu, đồng thời là biểu hiện của tinh thần dám nghĩ của những người lãnh đạo của một địa phương vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 30 năm).
Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858
Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)
Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5-1966, đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam thời chống Mỹ
Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để làm áp lực với chính quyền trung ương.

Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)
Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.
Chưa có bình luận ý kiến bài viết!