Ngày 29-3-1975 – Giải phóng Quảng Nam – Đà Nẵng
Nhật ký chiến trường ghi:
- Ngày 10-3-1975, vào lúc 1 giờ 45 phút, quân ta nổ súng tấn công thị xã Buôn Ma Thuột, mở đầu chiến dịch quy mô ở Tây Nguyên.
- Ngày 11-3-1975, thị xã Buôn Ma Thuật hoàn toàn giải phóng.
- Ngày 14-3-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp với Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Nha Trang, quyết định rút quân bỏ 3 tỉnh Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn.
- Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975.
- Ngày 19-3-1975, thị xã Quảng Trị và toàn tỉnh hoàn toàn giải phóng.
- Ngày 24-3, Quảng Ngãi và thị xã Tam Kỳ (tỉnh lỵ tỉnh Quảng Tín) hoàn toàn giải phóng.
Ngay chiều 28, Ngô Quang Trưởng cùng Bộ tư lệnh vùng 1 chiến thuật đã bí mật chuồn ra hạm đội 7 của Mỹ đậu ở ngoài khơi, bỏ lại thành phố đang hoang mang, náo động, bất chấp lời kêu gọi “tử thủ Đà Nẵng” của Nguyễn Văn Thiệu.
Được tin Ngô Quang Trưởng cùng Bộ chỉ huy đã chuồn khỏi Đà Nẵng, ban chỉ đạo khởi nghĩa ở nội thành đã có quyết định sáng suốt và táo bạo là phát lệnh khởi nghĩa ngay trong đêm 28-3, mặt khác điện báo cho Bộ tư lệnh chiến dịch điều lực lượng vũ trang vào ngay thành phố, không chờ đến ngày 30-3 theo như kế hoạch đã dự kiến:
|
Quân giải phóng đánh nổ kho xăng của địch tại Đà Nẵng ngày 29-3-1975. Ảnh - PHỤNG KÝ |
Rạng sáng ngày 29-3-1975, các cánh quân chủ lực của ta theo ba hướng tiến vào thành phố. Đến 11 giờ 30 phút, biệt động thành phố và sau đó đại đội 1 của trung đoàn 96 tiếp quản Tòa Thị chính.
|
Ảnh tư liệu báo Đà Nẵng |
Lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Tòa Thị chính, trên sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy.
|
Cờ cách mạng tung bay trên nóc Tòa thị chính Đà Nẵng ngày 29-3-1975 - Ảnh tư liệu của Báo Đà Nẵng |
Phối hợp với lực lực lượng nổi dậy, của quần chúng chiều 29-3, bộ đội chủ lực đã vượt qua cầu Trịnh Minh Thế tiến vào cứ điểm Sơn Trà.
Đến chiều 29-3-1975, tiếng súng về cơ bản chấm dứt. Chiến dịch giải phóng thành phố lớn thứ hai ở miền Nam kết thúc thắng lợi hoàn toàn.
|
Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ tại cuộc Mítting mừng giải phóng QuảngNam – Đà Nẵng tại Đà Nẵng 1975 |
Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng đã góp phần to lớn, và tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn và cả miền Nam thân yêu kết thúc vào ngày 30-4-1975.
Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858
Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)
Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5-1966, đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam thời chống Mỹ
Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để làm áp lực với chính quyền trung ương.

Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)
Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.
Chưa có bình luận ý kiến bài viết!