Một Số Sự Kiện Đáng Nhớ

* Từ 01/10/1888 đến 19/09/1905

1-10-1888

Ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý, tức ngày 1-10-1888, vua Đồng Khánh ký đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp quyền sở hữu hoàn toàn thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và khu Đà Nẵng. Theo Phụ đính kèm theo đạo dụ này, khu Đà Nẵng gồm 5 xã cắt ra từ huyện Hòa Vang: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương, Nại Hiên Tây. Dụ này được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y bằng Nghị định ngày 2-10-1888.

24-5-1889

Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định Thành lập thành phố Tourane (Đà Nẵng) thuộc tỉnh Quảng Nam. Thành phố Đà Nẵng được xếp vào loại thành phố cấp 2, như thành phố Chợ Lớn trước đó và thành phố Phnom Penh (Campuchia) sau này. Về tổ chức hành chính, thành phố có Đốc lý đứng đầu, do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có diện tích 10.000ha (tương đương với 20.000 mẫu ta).

15-1-1901

Trước sức ép của Toàn quyền Đông Dương, vua Thành Thái ký đạo dụ nhượng thêm 8 xã bên tả ngạn (Xuân Đán, Thạc Gián, Yên Khê, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Thanh Khê, Đông Hà Khê thuộc huyện Hòa Vang) và 6 xã bên hữu ngạn (Mỹ Khê, An Hải, Tân Thái, Mân Quang, Nại Hiên Đông, Vĩnh Yên thuộc huyện Diên Phước).

19-9-1905

Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách thành phố Tourane (Đà Nẵng) khỏi tỉnh Quảng Nam, thành một đơn vị hành chính độc lập, gồm 19 xã (13 xã phía tả ngạn sông Hàn và 6 xã phía hữu ngạn).

 
* Từ 8/1945 đến 20/7/1954
8-1945

Sau Cách mạng Tháng 8-1945, thành phố Đà Nẵng được gọi là thành phố Thái Phiên (1882 – 1916) – danh nhân quê ở Đà Nẵng đã tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quang phục hội đề xướng (4-5-1916), nhưng thất bại. Thái Phiên bị thực dân Pháp xử chém tại pháp trường An Hòa (gần Huế) cùng với Trần Cao Vân ngày 17-5-1916.

9-10-1945

Hội đồng Chính phủ ra Quyết nghị các kỳ, thành phố, tỉnh và phủ, huyện trong cả nước Việt Nam vẫn giữ tên như cũ, không dùng tên danh nhân để đặt cho các đơn vị hành chính, gây trở ngại trong việc thông tin liên lạc. Do đó, thành phố Đà Nẵng trở lại với tên cũ trước ngày cách mạng thành công.

10-1945

Thành phố Đà Nẵng được mở rộng ở phía đông, thêm hai xã của huyện Hòa Vang cắt nhập vào, là xã Nam Thọ và xã Hòa Hải. Thành phố chia thành 3 khu:

- Khu Trung: gồm 5 xã Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nại Hiên Tây, Bình Thuận.

- Khu Tây: gồm 7 xã Thanh Khê, Hà Khê, Xuân Hòa, Xuân Đán, Liên Trì, Thạc Gián, Thuận An.

- Khu Đông: gồm 9 xã An Hải, Hòa Hải, Mỹ Khê, Phước Trường, Tân Thái, Nam Thọ, Cổ Mân, Mân Quang, Nại Hiên Đông.

4-1946

Cuộc họp đầu tiên của Hội đồng Nhân dân thành phố ra Nghị quyết phân chia địa giới hành chính của thành phố thành 7 khu. Đảo Hoàng Sa là một đơn vị xã trực thuộc thành phố Đà Nẵng.

1. Phía tả ngạn sông Hàn có 5 khu phố:
- Khu Trần Phú bao gồm toàn bộ xã Hải Châu.

- Khu Phan Đăng Lưu gồm các xã Bình Thuận, Phước Ninh, Nại Hiên Tây và Nam Dương.

- Khu Phan Thanh gồm các xã: Thạc Gián, Thạch Thang, Liên Trì.

- Khu Lê Hồng Phong gồm các xã: Yên Khê, Xuân Hà, Xuân Đán, Phục Đán.

- Khu Hà Huy Tập gồm các xã: Thanh Khê, Hà Khê, Thuận An.

2. Phía hữu ngạn sông Hàn có 2 khu:

- Khu Nguyễn Thái Học gồm các xã: Mỹ Khê, An Hải, Phước Trường, một phần Nại Hiên Đông.

- Khu Phó Đức Chính gồm các xã: Cổ Mân, Mân Quang, Nam Thọ, Tân Thái.

20-12-1946

Pháp chiếm lại Đà Nẵng. Để tiện cho việc chỉ đạo hoạt động của ta, từ 7 khu phố, nay sáp nhập lại làm 3 khu: khu Trung, khu Tây, khu Đông.

1948

Để tạo bàn đạp thâm nhập vào thành phố, UBKCHC tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng ra quyết định tách một số xã của huyện Hòa Vang, sáp nhập vào thành phố: Mỹ Thị, Bà Đa, Đa Phước, Nước Mặn.

6-1949

Ba xã của huyện Hòa Vang được cắt ra để sáp nhập vào thành phố là Hòa Cường, Khuê Trung, Hóa Khuê. Thành phố Đà Nẵng chia thành 6 khu:

Ba khu nội thành:
- Khu Trần Phú gồm xã Hải Châu.

- Khu Phan Thanh gồm một phần xã Hải Châu, Thạc Gián và Thạch Thang.

- Khu Phan Đăng Lưu gồm các xã Phước Ninh, Nam Dương, Nại Hiên Nam, Bình Dương.

Ba khu ngoại thành:

- Khu Đông gồm các xã: An Hải, Hòa Hải, Mỹ Khê, Phước Trường, Tân Thái, Nam Thọ, Cổ Mân, Mân Quang, Nại Hiên Đông, Nước Mặn, Mỹ Thị, Bà Đa.

- Khu Tây gồm các xã: Thanh Khê, Hà Khê, Xuân Hòa, Xuân Đán, Liên Trì, Thạc Gián, Thuận An.

- Khu Nam gồm các xã: Khuê Trung, Lỗ Sài, Hoa Sơn, Thuận Nam, Liên Trì Nam, Liên Trì Bắc.

20-7-1954

Theo hiệp định Genève, nước Việt Nam tạm thời chia thành hai miền Nam, Bắc. Vĩ tuyến 17B, nơi con sông Hiền Lương chảy từ nguồn Trường Sơn ra biển Đông (tỉnh Quảng Trị), được coi là ranh giới tạm thời giữa hai miền. Sau 2 năm, sẽ tổ chức hiệp thương, tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam ngày 2-12-1954. Tình trạng đất nước bị chia cắt kéo dài suốt 21 năm (1954 – 1975) mới chấm dứt.

Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam ở phía Nam vĩ tuyến 17B thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.

 
* Từ 10/1955 đến 29/3/1975
10-1955

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập thị xã Đà Nẵng gồm 3 quận với 18 khu phố (tương đương với phường).

- Quận I: gồm 9 khu phố: Xương Bình, Phước Ninh, Thiệu Bình, Hải Châu, Thạch Thang, Nam Dương, Hòa Thuận, Bình Thuận, Nại Hiên.

- Quận II: gồm 10 khu phố: Thạc Gián, Hà Khê, An Khê, Phú Lộc, Phục Đán, Chính Trạch, Xuân Đán, Tam Tòa, Thanh Khê, Xuân Hòa.

- Quận III: gồm 9 khu phố: An Hải, Mân Quang, Cổ Mân, Nam Thọ, Mỹ Khê, Phước Trường, Nại Hiên Đông, Tân Thái, Thượng Nghĩa.

31-7-1962

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra sắc lệnh 162-NV chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam có 9 quận, 1 thị xã, 144 xã. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hội An. Tỉnh Quảng Tín có 6 quận, 1 thị xã, 89 xã. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Tam Kỳ.

Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, chính quyền cách mạng tỉnh Quảng Nam chấp hành Nghị quyết của Khu ủy V, chia Quảng Nam thành hai tỉnh mới để tiện việc tổ chức, chỉ đạo, đối phó với âm mưu của địch.

Phía bắc là tỉnh Quảng Đà gồm 5 huyện (Hòa Vang, Đại Lộc, Thống Nhất, Điện Bàn, Duy Xuyên), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An.

Phía nam là tỉnh Quảng Nam gồm 6 huyện (Quế Sơn, Nam Tam Kỳ, Bắc Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà Sơn).

11-1967

Khu ủy V ra quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà.

6-1-1973

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra nghị định giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã, gồm 12 ủy viên, do một thị trưởng đứng đầu.

- Quận I: gồm 7 phường: Triệu Bình, Xương Bình, Thạch Thang, Hải Châu, Nam Phước, Bình Hiên, Hòa Thuận.

- Quận II: gồm 5 phường: Chính Gián, Thạc Gián, An Khê, Thanh Lộc Đán, Hà Tam Xuân.

- Quận III: gồm 7 phường: Nam Thọ, Mân Quang, Mân Thái, An Hải Tây, Phước Mỹ, Nại Nghĩa, An Hải Bắc.

26-3-1975

Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy Mặt trận Quảng Đà (mật danh 475) do Trung tướng Lê Trọng Tấn – Tổng tham mưu phó – làm Tư lệnh và Thượng tướng Chu Huy Mân – Tư lệnh Quân khu 5 – làm Chính ủy để trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy Quân đoàn 2 và quân, dân khu V đánh chiếm Đà Nẵng.

28-3-1975

Các mũi tiến công vào Đà nẵng đã hình thành, bao gồm Sư đoàn 325 đảm nhiệm hướng bắc, Trung đoàn 9 hướng tây, Sư đoàn 304 hướng tây nam, lực lượng Quân khu 5 đảm nhận hướng nam, lực lượng vũ trang Quảng Đà đảm nhận hướng đông và các mục tiêu trong thành phố.

5 giờ sáng, pháo binh ta bắn khống chế sân bay và hải cảng, mở đầu chiến dịch giải phóng Đà Nẵng. Đến chiều, các cửa ngõ vào thành phố đã được khai thông. Cũng vào buổi chiều, tướng Ngô Quang Trưởng và Bộ Tư lệnh vùng I chiến thuật bí mật chuồn ra Hạm đội 7, bỏ lại thành phố đang trong cơn hỗn loạn.

29-3-1975

12 giờ trưa, quân ta làm chủ hoàn toàn sân bay Đà Nẵng.

14 giờ, lá cờ cách mạng tung bay trên Tòa Thị chính Đà Nẵng và trên cột cờ Bộ Chỉ huy Quân đoàn I ngụy.

15 giờ, tiếng súng cơ bản chấm dứt. Thành phố Đà Nẵng hoàn toàn được giải phóng.

 
* Từ 2/1976 đến 06/11/1996
2-1976

Thực hiện Nghị quyết số 245-NQTW của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc bỏ khu, hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20-12-1975 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc điều chỉnh, hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo Nghị định này, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (gồm tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà) là một trong 21 đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở miền Nam.

30-8-1977

Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 228-CP về việc hợp nhất các quận I, II, III thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính thống nhất, lấy tên là thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

9-12-1982

Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 144-HĐBT thành lập huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, bao gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trước đây thuộc huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

6-11-1996

Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa IX, kỳ họp thứ 10, phê chuẩn việc thành lập tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. 

Những mốc son lịch sử

Chưa có bình luận ý kiến bài viết!

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858

Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)

Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5-1966, đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam thời chống Mỹ

Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để làm áp lực với chính quyền trung ương.

Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)

Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.

Asset Publisher

Navigation Menu

Navigation Menu