Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)

Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.

Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), đèo Hải Vân được mệnh danh là “mồ chôn giặc Pháp”. Ca dao kháng chiến có câu: “Hải Vân cao ngất tầng mây. Giặc đi đến đó bỏ thây không về”.

Còn bọn chỉ huy Pháp thì gọi đường đèo này là “con đường không vui” (route sans joie), dù nơi đây phong cảnh tuyệt vời có đủ trời, mây, rừng, biển.

- Trận giao thông chiến đầu tiên xảy ra ngày 28-2-1947, tiểu đoàn 19 đã tiêu diệt một đại đội lính Âu Phi, phá hủy 8 xe quân sự.

- Trận thứ hai xảy ra sau đó chưa đầy 3 tháng, ngày 25-5-1947, quân ta đã tiêu diệt 100 lính lê dương, hàng chục sĩ quan, trong đó có viên đại tá Roger, chỉ huy quân Pháp ở chiến trường Trung Đông Dương.
 

 

Phục kích đánh địch ở hầm số 1 đèo Hải Vân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (1947)

  

Vào lúc 6 giờ sáng ngày 24-1-1949, một đoàn tàu quân sự chở đầy lính và hàng tiếp tế từ Đà Nẵng ra Huế sắp rúc vào hầm số 2, thì một tiếng nổ long trời hất tung đầu máy ra khỏi đường ray, kéo theo các toa xe lăn xuống vực. Các chiến sĩ tiểu đoàn 79 xung phong chia cắt, tiêu diệt từng tốp quân địch còn sống sót.

Cũng cùng thời điểm ấy, trên quốc lộ, đoàn xe quân sự gồm 18 chiếc từ Đà Nẵng ra cũng lọt vào ổ phục kích của tiểu đoàn 19. Ba chiếc xe đi đầu bị trúng mìn nổ tung. Đoàn xe thiết giáp hộ tống hoảng sợ quay đầu tháo lui, bỏ mặc đoàn xe vận tải cho bộ đội ta tiêu diệt và chiếm lĩnh.

Trong trận này, kể cả 3 nơi xảy ra trận phục kích, quân ta đã phá hủy một đầu máy, 14 toa xe bị lăn xuống hố sâu, 15 xe cơ giới bị phá hủy, giết và làm bị thương trên 300 tên địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược.

Chiến thắng Hải Vân lần thứ ba (24-1-1949) là một trận phục kích vừa đánh giao thông trên đường bộ và cả đường sắt, vừa đánh diệt viện trên một đường đèo hiểm trở và đã đạt được hiệu quả lớn. 

Những mốc son lịch sử

Chưa có bình luận ý kiến bài viết!

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858

Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Cầu sông Hàn – Niềm tự hào của người Đà Nẵng

Cầu Sông Hàn được khởi công xây dựng ngày 2-9-1998 và khánh thành, đưa vào sử dụng đúng ngày kỷ niệm 25 năm giải phóng thành phố Đà Nẵng 29-3-2000.

Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai ở mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng (20-12-1946)

Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc họp dưới sự chủ tọa của Tổng Bí thư Trường Chinh đã đi đến nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng chất lượng quân sự và chính trị sẵn sàng chiến đấu khi giặc Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược cả nước ta.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)

Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Xuất bản thông tin

Navigation Menu

Navigation Menu