Vai trò lịch sử của Dinh trấn Thanh Chiêm

Lịch sử đã minh chứng rằng việc chọn Thanh Chiêm làm dinh trấn Quảng Nam (1602) là một quyết sách mang tầm nhìn chiến lược, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc dựng nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong của tiên chúa Nguyễn Hoàng nói riêng và công cuộc Nam tiến của dân tộc nói chung.

Dinh trấn Thanh Chiêm (ảnh chụp cuối thế kỷ XIX)

Ban đầu, dinh trấn Quảng Nam đặt tại xã Cần Húc, sau dời về xã bên cạnh là Thanh Chiêm (cả hai nơi đều thuộc Điện Bàn). Việc chọn Thanh Chiêm làm dinh trấn thể hiện cái nhìn chiến lược khá chính xác trên nhiều phương diện.

Về chính trị: Dinh trấn Thanh Chiêm được coi là thủ phủ thứ hai ở Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn; là nơi thực tập, đào luyện các thế tử, nơi thực thi chính sách mở cửa, đường lối có tính chất thân dân. Đối ngoại, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phép các thương nhân Nhật và Trung Hoa được mua đất, lập khu phố Nhật và khu phố Hoa ở Cẩm Phô, Thanh Hà (Hội An), mở rộng giao lưu với bên ngoài.
 
Về quân sự: Dinh trấn được thiết lập bên bờ sông lớn nhất trong vùng, nối biển Đông với Trường Sơn theo chiều đông – tây, cách cửa Đại khoảng 10km, lại nằm trên trục đường thiên lý bắc – nam, do đó rất thuận lợi cả hai mặt giao thông thủy và bộ. Trong thực tế, nơi đây từng là một căn cứ thủy quân hùng mạnh không kém gì căn cứ ở Quảng Bình. Lực lượng hải quân ở đây đã góp phần vào trận chiến thắng hạm đội Hà Lan năm 1644 do Dũng Lễ hầu (sau này là Hiền Vương) chỉ huy. Dinh trấn Thanh Chiêm cũng là nơi đặt cơ sở hậu cần vững chãi nhất của quân lực Đàng Trong, nhờ đó mà đánh bại được 7 cuộc tấn công quy mô của quân Trịnh (vào các năm 1627, 1633, 1643, 1648, 1660, 1661, 1672).
Quảng Nam thời dinh trấn Thanh Chiêm còn giữ vai trò bàn đạp quan trọng của công cuộc mở cõi về phía Nam ở thế kỷ XVIII.
 
Về kinh tế: Sự phát triển thịnh đạt của Hội An trong thế kỷ XVII và XVIII trở thành một cảng thị vào loại sầm uất của cả vùng Đông Nam Á thời ấy chính là được quyết định bởi những chính sách, sự điều hành của dinh trấn Thanh Chiêm – trung tâm hành chính lớn nhất của trấn Quảng Nam – như việc cho phép mua đất lập phố của ngoại kiều; lập xã Minh Hương; tổ chức hội chợ quốc tế theo gió mùa hàng năm, thiết lập thương điếm của nước ngoài; chính sách thuế khóa trong xuất nhập hàng hóa v.v…
Những ý kiến ca ngợi về sự giàu có, tài nguyên phong phú, sản phẩm hàng hóa đa dạng của Quảng Nam trong các tác phẩm của Thích Đại Sán, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú hay trong các ký sự của một lái buôn phương Tây chủ yếu là nói về giai đoạn này.
 
Về văn hóa: Hội An không chỉ là một cửa ngõ mậu dịch đối ngoại, mà còn là một trung tâm giao tiếp văn hóa qua suốt nhiều thế kỷ. Hội An – Thanh Chiêm là nơi du nhập đạo Thiên Chúa sớm nhất ở Đàng Trong. Các giáo sĩ như F. Buzomi, F. De Pina, C. Borri, A. De Rhodes đều đến truyền giáo ở vùng này. Vùng Hội An – Thanh Chiêm cũng là cái nôi hình thành chữ quốc ngữ vào nửa cuối thế kỷ XVII.
 
Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà vùng đất Quảng Nam được các nhà truyền giáo và các thương nhân nước ngoài gọi là “Quảng Nam quốc” (nước Quảng Nam), mà trong đó vai trò lịch sử của dinh trấn Thanh Chiêm đã đóng góp phần quan trọng cho công cuộc mở cõi và giữ nước của tiền nhân trong thế kỷ XVII-XVIII.
 

Những mốc son lịch sử

Chưa có bình luận ý kiến bài viết!

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858

Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)

Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)

Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.

Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5-1966, đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam thời chống Mỹ

Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để làm áp lực với chính quyền trung ương.

Xuất bản thông tin

Navigation Menu

Navigation Menu