Phạm Phú Thứ, tấm gương về lòng cương trực, dũng cảm của người trí thức

Phạm Phú Thứ (1820-1883) quê làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, thông minh từ nhỏ, học rộng, tài cao.

23 tuổi đỗ cử nhân (thủ khoa trên 38 vị) năm Thiệu Trị thứ hai (1842); 24 tuổi đỗ đầu bảng Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mão (1843). Đọc tiểu sử và hành trạng của ông, ta thấy ông đã từng giữ chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua); Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hộ (Tài chính) đồng thời sung Cơ mật viện đại thần; thương thuyết gia (Phó sứ cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản trong phái bộ sang Pháp và Tây Ban Nha xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1863-1864); một doanh điền sứ, một nhà hoạch định chiến lược (tổ chức khẩn hoang hai huyện Nam Sách, Đông Triều), mở cảng chiêu thương Hải Phòng, biến “một dải sông Cấm thuyền xe tụ họp đông đúc thành ra nơi lạc thổ”(1).

Tuy nhiên, đường làm quan dài 38 năm của Phạm Phú Thứ lại có lắm bước gập ghềnh, thăng giáng, không được phẳng phiêu do bản tính cương trực, không chịu nhắm mắt làm ngơ trước quyền uy, dù đó là quyền uy của bậc “con Trời”. Năm 1850, ông thấy ở triều đình vua trẻ ham mê vui chơi, lơ là việc triều chính trong lúc đất nước đang đứng trước nguy cơ xâm lược của giặc ngoài, đã dũng cảm dâng sớ can gián nhà vua với lời lẽ thẳng thắn và thiết tha: “…Lễ đại định ít thấy ra triều thị, nhạc nội uyển kèn trống suốt cả đêm, nhà Kinh diên lâu không tới giảng, chốn triều đình lâu không han hỏi, thần tử ở bốn phương, phủ huyện cũng lâu không được thừa chỉ, thanh vấn. Lại nói: thái y phương thuốc điều hòa, thực cũng quá ư nghệ thuật, quần thần dâng sớ thỉnh an, vị tình khuất cả lời nói(2).
 
Sớ tâu lên, Phạm Phú Thứ phải trả một giá khá đắt vì tội “phạm thượng”. “Vua cho lời nói khí quá khích… đình nghị cho là hủy báng định bắt tội đồ, nhưng giảng quan và ngôn quan xin khoan tha cho”(3). Cuối cùng, ông bị cách chức, đày đi khổ sai một năm ở trạm bưu chính Thừa Nông, phía tây nam thành Huế. Bạn hữu thân thích trong triều nhiều người lo cho số phận của ông, nhưng ông vẫn tự tin về việc mình làm là đúng và cần thiết, lúc rỗi việc thì đi câu cá, ngắm cảnh, làm thơ. Tập thơ Nông giang thi lục được sáng tác vào thời gian này.
 
Tuy đã bị vua trừng phạt một lần vì tội dám nói thẳng, thế mà 23 năm sau, khi đã luống tuổi và ở địa vị cao, Phạm Phú Thứ lại một lần nữa dám phê bình vua: “Phóng túng, tuần du vô độ”. Nhưng vị “con Trời” lần này không ra tay trừng phạt quan đại thần “tài cán và lão luyện, kinh lịch nhiều khó nhọc, đi đông sang tây, dẫu yếu đuối vẫn vâng mệnh không dám từ chối” như đã được nhà vua đánh giá mà chỉ biết chửa thẹn một cách trịch thượng: “Đó là lỗi đã thành tật của ta, không thể khiển trách được”(!). Có lẽ vì vậy mà Tự Đức đã nhận xét ông là “cố chấp, nhưng ngựa có cắn, có đá, mới đi nghìn dặm”(4).
Ngoài những thành tích rực rỡ về mặt quản lý hành chính, Phạm Phú Thứ còn là một chính khách có tầm nhìn chiến lược trước thời cuộc, kiên trì gắn chặt nhiệm vụ cứu nước với yêu cầu canh tân. Và chính ông, một trí thức nho học đã đi tiên phong trong việc học tập và phổ biến khoa học, kỹ thuật ở nước ta ở thế kỷ XIX. Ông cũng đã để lại một sự nghiệp trước tác phong phú cả về nội dung lẫn số lượng. Về văn thơ có Giá viên toàn tập gồm 13 quyển thơ, 13 quyển văn và tập Tây hành nhật ký. Về sử có Liệt triều thông hệ niên phả toàn yếuBản triều liệt thánh sử lược toát yếu.

(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 4, Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 229.

(2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Sđd, tr. 225-226.

(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Sđd, tr. 225-226.

(4) Dẫn theo Quang Uyển, bản dịch Nhật ký đi Tây, Nxb. Đà Nẵng, 1999, tr. 41.

 

Những mốc son lịch sử

Chưa có bình luận ý kiến bài viết!

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858

Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)

Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5-1966, đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam thời chống Mỹ

Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để làm áp lực với chính quyền trung ương.

Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)

Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.

Xuất bản thông tin

Navigation Menu

Navigation Menu