Cầu sông Hàn – Niềm tự hào của người Đà Nẵng
Cầu Sông Hàn được khởi công xây dựng ngày 2-9-1998 và khánh thành, đưa vào sử dụng đúng ngày kỷ niệm 25 năm giải phóng thành phố Đà Nẵng 29-3-2000.
Đây cũng là năm kết thúc thiên niên kỷ thứ hai. So với nhiều cầu khác trong nước đã được xây dựng, thì cầu Sông Hàn không có tầm vóc quy mô, bề thế như cầu Long Biên, cầu Thăng Long, hay cầu Thanh Trì bắc qua sông Hồng ở thủ đô Hà Nội và cũng không mang vóc dáng hoành tráng, hiện đại như cầu dây văng Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền, nhưng nó có những đặc điểm riêng mà các cây cầu khác không có nên được nhiều người nói đến… Đã có hàng chục bài văn, bài thơ viết về cây cầu này. Đây là cây cầy quay đầu tiên ở Việt Namdo kỹ sư trong nước tự thiết kế và thi công với tốc độ xây dựng nhanh kỷ lục theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Số tiền mà các tầng lớp nhân dân đóng góp chiếm đến 30% kinh phí để xây cầu.

Cầu dài 456,46 mét gồm 13 nhịp, hai nhịp giữa có thể quay theo chiều dọc của dòng sông để tàu có trọng tải lớn, cột buồm cao có thể đi qua, vào các cảng ở sâu trong nội địa.
Nếu tính từ khi thành phố “nhượng địa” Tourane được lập (1888) cho đến ngày có cây cầu đẹp và bề thế nối liền đôi bờ sông Hàn là 112 năm. Trong hơn một thế kỷ ấy, người dân thành phố hằng ngày phải qua lại trên sông bằng những chiếc đò ngang ọp ẹp, và về sau có thêm được chiếc phà máy nhỏ. Khổ nhất là vào mùa mưa to, gió lớn, nước sông Hàn lên cao chảy xiết, việc qua sông không an toàn. Điều đáng nói ở đây là giá như cảnh này diễn ra ở nơi ngoại ô thì chẳng nói làm gì, đằng này nó lại ở ngay trung tâm thành phố Đà Nẵng, bên này là quận I (nay mang tên quận Hải Châu) và bên kia là quận 3 (nay mang tên quận Sơn Trà). Sau ngày giải phóng, do những khó khăn thực tế, cho nên tình trạng này cũng phải lại dài thêm 25 năm nữa mới kết thúc.
Câu ca dao mang nỗi buồn hiu hắt từ thời mất nước vẫn còn in đậm trong ký ức của nhiều người Đà Nẵng:
Bên tê Hà Thân đâu chỉ có “nước xanh như tàu lá”, mà cái nghèo của người dân cũng phơi bày ra giữa thanh thiên bạch nhật với những dãy nhà chồ chắp vá đặt trên những chiếc cọc gỗ khẳng khiu và những chiếc thuyền câu nhỏ bé buộc bên dưới. Đó là nơi tá túc nhếch nhác, tối tăm, của những kiếp người lao động khuân vác, buôn gánh bán bưng, hay bám lấy những đám ruộng rau cải, hành ngò để sống, những ngư dân đánh bắt tôm cá ven bờ v.v… Cái nghịch cảnh của cuộc sống giữa hai bờ của một con sông, một bên là “phố xá nghênh ngang” ngập tràn ánh điện về đêm, một bên là những dãy nhà chồ rách nát, ban đêm le lói vài ngọn đèn dầu tù mù kéo dài hơn một thế kỷ, chỉ thực sự bắt đầu chấm dứt từ khi có những nhịp cầu hiện đại nối liền đôi bờ đông – tây với tên gọi cầu Sông Hàn.
Cây cầu nối từ đoạn cuối của đường Lê Duẩn bên quận Hải Châu sang bên kia là quận Sơn Trà ở đầu đường Phạm Văn Đồng rộng 45 m chạy thẳng đến bãi tắm Mỹ Khê, nối thông với con đường ven biển từ Bãi Bụt bên núi Sơn Trà đến thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, vào tận Hội An, và mai đây sẽ vượt Cửa Đại đến Chu Lai, Dung Quất.

Giờ đây, từ quân Hải Châu sang quận Sơn Trà chỉ cần ba phút xe máy để qua cầu, và nếu đi bộ thì cũng chỉ khoảng 10 phút. Giao thông phát triển thuận lợi đã khơi dậy những tiềm năng, mà trước mắt là dịch vụ và du lịch của hai quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn nằm ở vị trí một bên là sông Hàn, một bên là biển Đông. Từ khi có cây cầu nối liền đôi bờ, giá đất ở khu vực này tăng lên gấp hàng chục lần. Các doanh nhân từ nơi khác, kể cả từ Hà Nội, Sài Gòn đổ về đây mua đất xây nhà, khách sạn, phát triển dịch vụ, du lịch. Nhờ vậy, hàng ngàn thanh niên đã tìm được việc làm, có thu nhập cao. Sau năm năm kể từ ngày cầu Sông Hàn được đưa vào sử dụng (2000 - 2005) hai quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn đã không còn hộ thiếu đói. Những khu dân cư được quy hoạch lại, nhiều con đường được chỉnh sửa, mở rộng, những nhà cao tầng, biệt thự, công sở, trường học chùa chiền, khách sạn mọc lên san sát. Không gian đô thị của thành phố đang nới rộng về phía đông và phía nam với tốc độ nhanh.
Cầu Sông Hàn không chỉ góp phần thuận lợi cho giao thông đô thị và phát triển kinh tế của vùng đất ở phía đông thành phố như đã nói ở trên, mà còn là một biểu tượng văn hóa khá độc đáo của một thành phố nơi cửa biển. Dáng đứng của trụ cầu dây văng vút cao, đẹp một cách thanh nhã nổi bật trên dòng sông Hàn lộng gió, in hình lên phông màu xanh đậm phía sau là cụm núi Sơn Trà. Nhiều thợ nhiếp ảnh đã bám trụ trên cầu để hành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu khách thập phương từng đến đây muốn có một kỷ niệm về cảnh đất Hàn. Cũng cần nói thêm rằng chính sự chỉnh trang đầy sáng tạo của đôi bờ sông nơi chiếc cầu bắc qua - bên này là đường Bạch Đằng, bên kia là đường Trần Hưng Đạo - đã tạo nên một cái khung làm tôn thêm vẻ đẹp của bức tranh cầu sông Hàn.
Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đầu tiên của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng năm 1858
Ở thế kỷ XIX, Việt Nam nằm trong tầm ngắm của thực dân Pháp trong kế hoạch giành giật thị trường và mở rộng khu vực ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đà Nẵng được coi như một cửa ngõ chiến lược để xâm lược Việt Nam.

Đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng (8-3-1965)
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam và thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Sau khi đưa một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên lửa HAWK vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, đại đội đầu tiên của tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê). Đến chiều cùng ngày, tiểu đoàn 2 thuộc lữ đoàn nói trên được không vận từ căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Đây là những đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên của Mỹ được đưa vào miền Nam, trực tiếp tham chiến.

Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)
Dưới sức ép của thực dân Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký với chúng "Hiệp ước hòa bình" (còn gọi là hiệp ước Harmand), qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa (concession) ở đây. Cho đến bản Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) thì căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau

Chiến thắng lịch sử trên đèo Hải Vân trong kháng chiến chống Pháp (24-1-1949)
Hải Vân, con đèo hùng vĩ và đẹp nhất nước, từng được sử sách xưa xếp vào loại “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhưng đối với các đạo quân xâm lược, thì nơi đây đã ghi lại bao nỗi đau buồn.

Cuộc nổi dậy làm chủ của nhân dân Đà Nẵng từ tháng 3 đến tháng 5-1966, đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam thời chống Mỹ
Do mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ đám tay sai chóp bu của Mỹ ở Sài Gòn, cái gọi là “Hội đồng quân sự” do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu đã ra lệnh cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân đoàn I, ngày 10-3-1966. Nhận được tin Thi bị cách chức, vào lúc 17 giờ ngày 11-3-1966, khoảng 300 sĩ quan và binh lính thuộc phe cánh ông ta ở miền Trung họp mít tinh ở hội trường Trưng Vương (Đà Nẵng) “yêu cầu chính phủ trung ương phục chức cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi”, đồng thời thành lập “Ủy ban quân dân vùng I chiến thuật” để làm áp lực với chính quyền trung ương.
Chưa có bình luận ý kiến bài viết!