Quảng Nam Đà Nẵng qua các địa danh (phần 1)
Ái Nghĩa
Làng thuộc tổng Đức Hạ, huyện Đại Lộc đầu thế kỷ XX.
Ái Nghĩa
Thị trấn huyện lỵ thuộc huyện Đại Lộc thành lập ngày 14/3/1984 theo Quyết định số 40/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở trích một phần đất các xã Đại Phước, Đại Hiệp, Đại An, Đại Hòa và Đại Nghĩa.
An Điềm
Đồn biên phòng do thực dân Pháp thiết lập ở thượng nguồn sông Con, phía tây bắc huyện Đại Lộc, nhằm kiểm soát việc giao lưu giữa thương lái ở đồng bằng và vùng dân tộc ít người Cơ tu. Sau ngày giải phóng tại nơi đây, một nhà máy thủy điện mang tên An Điềm công suất 5000KW được xây dựng.
Amaravati
Vùng đất với tên gọi bằng tiếng Sanscrit do Louis Finot phát hiện đầu tiên trên một văn bia Mỹ Sơn, được phiên âm bằng mẫu tự Latin để chỉ vùng lãnh thổ thuộc Quảng Nam ngày nay. Trong tác phẩm “Vương quốc Chăm pa” xác định Amaravati chính là địa bàn tỉnh Quảng Nam ngày nay.
An Hải
Thành nằm bên bờ phía đông sông Hàn, đối ngạn với thành phố Điện Hải, nay thuộc phường An Hải Đông, quận Sơn Trà. Ban đầu thành được đắp bằng đất vào năm Gia Long thứ 12. Năm Minh Mạng thứ 11 (1830) được xây lại bằng gạch sự điều khiển của Phó đô thống chế trung dinh Đồng Văn Trương với 3000 biền binh từ Thanh Nghệ vào làm việc trong nhiều tháng.
An Hòa
Cửa biển còn có tên là Hiệp Hòa, Đại Áp (Đại Nam nhất thống chí) nơi các dòng sông Bến Ván, Tam Kỳ và Trường Giang đổ nước ra biển, thuộc huyện Tam Kỳ, nay là huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
An Hòa
Làng biển thuộc tổng An Hòa, phủ Tam Kỳ đầu thế kỷ XX.
An Hòa
Khu kỹ nghệ đặt ở miền Tây huyện Duy Xuyên, bên phía hữu ngạn sông Thu Bồn do chuyên gia Mỹ, Đức thiết kế, bắt đầu xây dựng vào năm 1960. Theo đồ án, khu kỹ nghệ có một nhà máy điện một vạn kw chạy bằng than anthracite Nông Sơn. Do chiến tranh ác liệt, khu kỹ nghệ nằm trong khu vực tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch nên đến năm 1965, kế hoạch bị đình lại. Đến năm 1973, các thiết bị được dỡ chuyển đi, chỉ còn lại tường rào và nền móng một số nhà cửa.
An Nông
Huyện trong số 5 huyện thuộc phủ Điện Bàn ở thế kỷ 18, gồm 2 tổng, 34 làng, 7 phường, 1 man.
An Tân
Sông bắt nguồn từ dãy núi Răng Cưa phía tây nam (ranh giới giữa hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi), chảy qua thị tứ An Tân, tục danh là Bến Ván, đổ ra cửa biển Đại Áp, nay là cửa An Hòa thuộc huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
An Tân
Cầu, tên của hai cầu ôtô và cầu xe lửa ở cạnh nhau, nằm song song bắc qua sông An Tân, dài 75m thuộc thị trấn Núi Thành, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
Cổng TTĐT thành phố
Giới thiệu Địa danh Quảng Nam – Đà Nẵng
Địa danh của Quảng Nam – Đà Nẵng khá phong phú, có thể đến nhiều ngàn. Ngoài địa danh thuần Việt, còn có địa danh gốc Chăm, gốc Hán, gốc dân tộc thiểu số, gốc Pháp…. Cổng Thông tin Điện tử thành phố trân trọng giới thiệu với độc giả các địa danh của Quảng Nam - Đà Nẵng.
Quảng Nam Đà Nẵng qua các địa danh (phần 15)
Răng cưa: Dãy núi nằm ở phía cực nam tỉnh Quảng Nam, gồm nhiều đỉnh nhọn cao thấp nối nhau liên tục như hình răng cưa, làm ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Quảng Nam Đà Nẵng qua các địa danh (phần 13)
Núi Thành: Cụm đồi trọc có độ cao từ 45 – 50 m, nằm ở phía tây căn cứ quân sự Chu Lai 4 km, cách bờ biển 6km, thuộc xã Tam Nghĩa, huyện Tam Kỳ, nay là huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam Đà Nẵng qua các địa danh (phần 7)
Giáo Lao: Núi có đỉnh nhọn như mũi giáo, có tên là Chủ Sơn (Đại Nam nhất thống chí), nằm ở phía tây bắc huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Sườn núi phía Đông trở về Nam thuộc địa giới nguồn Lỗ Đông, đổ ra sông Yên, sườn núi phía Bắc thuộc địa giới nguồn Cu Đê, đổ ra vịnh Đà Nẵng.
Quảng Nam Đà Nẵng qua các địa danh (phần 12)
Ô Gia: Sông phát nguyên từ các rừng già phía Tây Bắc tỉnh Quảng Nam, chảy qua huyện Đại Lộc, hợp lưu với sông Thu Bồn từ Quế Sơn đổ xuống tại Giao Thủy, thành sông lớn chảy qua vùng đồng bằng Điện bàn, Duy Xuyên,. Cũng gọi là sông Vu Gia.
Chưa có bình luận ý kiến bài viết!